Cơ hội cho hàng thủ công mỹ nghệ
Theo thống kê năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (thủ công mỹ nghệ) của Việt Nam ước đạt 630,4 triệu USD. Nhiều ý kiến cho rằng đóng góp của ngành hàng này còn quá thấp, mới chỉ đạt chưa đầy 3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Theo thống kê năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (thủ công mỹ nghệ) của Việt Nam ước đạt 630,4 triệu USD. Nhiều ý kiến cho rằng đóng góp của ngành hàng này còn quá thấp, mới chỉ đạt chưa đầy 3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Tuy nhiên, nếu nhìn giá trị thực thu thì sự đóng góp của ngành hàng thủ công mỹ nghệ là không nhỏ so với nhiều mặt hàng công nghiệp khác.
Các ngành hàng như dệt may, giày dép, điện tử..., tuy kim ngạch thống kê cao nhưng ngoại tệ thực thu lại thấp, chỉ chiếm khoảng 20% giá trị xuất khẩu, do nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Trong đó hàng điện tử, linh phụ kiện máy tính, giá trị thực thu còn thấp hơn, khoảng 5-10%.
Các ngành hàng như dệt may, giày dép, điện tử..., tuy kim ngạch thống kê cao nhưng ngoại tệ thực thu lại thấp, chỉ chiếm khoảng 20% giá trị xuất khẩu, do nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Trong đó hàng điện tử, linh phụ kiện máy tính, giá trị thực thu còn thấp hơn, khoảng 5-10%.
Tạo nhiều việc làm và đóng góp lớn cho xuất khẩu
Hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước, nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm, khoảng 3-5% giá trị xuất khẩu. Vì vậy giá trị thực thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thực tế rất cao, từ 95-97%. Có thể so sánh một cách ví von, với 235 triệu USD xuất khẩu vào năm 2000, giá trị thực thu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam tương đương với giá trị xuất khẩu 1 tỷ 143 triệu USD hàng dệt may, xấp xỉ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Điều này cũng có thể hiểu là, nếu tăng thêm giá trị xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ, sẽ tương đương với tăng giá trị xuất khẩu 4,7 triệu USD hàng dệt may. Đó là chưa kể chi phí đầu tư đối với hàng thủ công mỹ nghệ thấp hơn rất nhiều do sản phẩm này không đòi hỏi đầu tư nhiều máy móc, trang thiết bị và chủ yếu làm bằng tay...Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tạo việc làm và thu nhập cho lao động trong nước.
Theo thống kê, tính đến nay, cả nước có khoảng 2.017 làng nghề với nhiều loại hình sản xuất như hộ gia đình, tổ sản xuất, tổ hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân,... thu hút hàng triệu lao động, kể cả lao động nhàn rỗi. Trong một ý nghĩa khác, việc duy trì và phát triển được các làng nghề truyền thống với nhiều thợ giỏi, nghệ nhân giỏi, có tay nghề cao cũng là cách duy trì các di sản văn hóa dân tộc từ đời này sang đời khác.
Theo Cơ quan Hợp tác quốc tế JICA (Nhật Bản), ngành hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam đã đào tạo việc làm cho hơn 1,35 triệu người; trong đó, 342 nghìn người đan tre trúc và song mây, 233 nghìn làm dệt thảm, chiếu đan lát, 129 nghìn thợ dệt thêu, với 60% trong số lao động đó là nữ. Thu nhập bình quân của lao động ngành nghề, cũng theo JICA là 366.000 VND/người/tháng. (Thu nhập bình quân chung cả nước là 295.000 VND và vùng nông thôn là 225.000 VND/người/ tháng).
Thị trường truyền thống và thị trường mục tiêu
Thời kỳ hoàng kim của hàng thủ công mỹ nghệ là giai đoạn 1975 đến 1986. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 40%, cao điểm đạt 53,4% (năm 1979). Giai đoạn trước 1990, thị trường chủ yếu là khối các nước Đông Âu, Liên Xô theo những thỏa thuận song phương. Sau 1990, thị trường này suy giảm bởi những biến động chính trị (năm 2000 chỉ đạt 40 triệu USD). Từ sau năm 2000, thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga và nhiều nước ASEAN, do những nỗ lực tìm kiếm thị trường. Trong đó, EU chiếm 50% giá trị xuất khẩu, Nhật Bản được xem là thị trường chính ở châu á, với 5% tỷ trọng. Mỹ là thị trường đầy triển vọng. Số các nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, từ 50 năm 1996, tăng lên 133 nước vào năm 2005; và hiện nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
Theo một con số thống kê gần đây, giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ chính yếu qua các năm từ 2000 đến 2006 như sau: 2000 đạt 235 (triệu USD), 2001 đạt 235, 2002 đạt 331, 2003 đạt 367, năm 2004 đạt 450, năm 2005 đạt 560 và 630,4 vào năm 2006. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này là 17,87%.Với thị trường EU ta xuất khẩu mặt hàng chính là gỗ, trong đó, Đức, Pháp, Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hóa nhập khẩu.
Tỷ lệ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 21,28%, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,8%. Thị trường Nhật Bản: kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này là 3,79 triệu USD năm 2004 (tăng 16,6% so với 2003). Khách hàng Nhật rất ưa thích mặt hàng gỗ và số lượng khách du lịch cũng gia tăng. Hiện có nhiều công ty Việt Nam sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Ngoài ra, thị trường Nam Phi cũng tăng trưởng với nhiều triển vọng khi nhiều Cty Việt Nam đang tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Nam Phi.
Theo TS. Nguyễn Văn Sánh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển ĐBSCL thì: "Người Việt vốn có tập quán sử dụng hàng thủ công mỹ nghệ từ lâu đời. Do đó, khi có thu nhập cao, hành vi tiêu dùng sẽ theo xu hướng sử dụng những hàng hóa có nguồn gốc nguyên liệu từ thiên nhiên và từ các nghề truyền thống". Tuy nhiên, mặc dù đã và đang có những đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cũng như nhiều lợi ích kinh tế xã hội khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề truyền thống vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển và mở rộng thị trường.
TS. Nguyễn Văn Sánh đã chỉ ra những tồn tại đồng thời là những thách thức đó. Trước tiên là những cản trở hiện tại trên thị trường, như: chi phí cho thủ tục giao nhận hàng khá cao (30 USD/m3), mẫu mã đơn điệu, sản phẩm vì thế không đồng nhất. Chi phí vận chuyển tính theo đơn vị m3 cao dẫn đến bất lợi trong cạnh tranh khi xuất khẩu hàng hóa sang EU và Mỹ. Một khó khăn nữa là Việt Nam phải chịu áp lực cạnh tranh cao với hàng hóa Trung Quốc, Thái Lan cùng nhiều nước ASEAN cả về giá cả và mẫu mã; chưa kể áp lực từ hàng nhái, hàng giả...
Thị trường nội địa có sức mua yếu, trong khi kinh nghiệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Mặt khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề truyền thống Việt Nam hiện tại còn thiếu tính liên kết giữa khoa học và mỹ thuật học với việc chế tạo, sản xuất sản phẩm.
TS. Nguyễn Văn Sánh cho biết thêm: "Chúng ta mặc dù đã có những chính sách hỗ trợ cho ngành, vẫn chưa có chiến lược phát triển toàn diện ngành hàng này trong việc phát triển sản xuất, từ khâu giống, vùng nguyên liệu cho đến tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ".
Hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất chủ yếu bằng nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước, nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm, khoảng 3-5% giá trị xuất khẩu. Vì vậy giá trị thực thu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thực tế rất cao, từ 95-97%. Có thể so sánh một cách ví von, với 235 triệu USD xuất khẩu vào năm 2000, giá trị thực thu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam tương đương với giá trị xuất khẩu 1 tỷ 143 triệu USD hàng dệt may, xấp xỉ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Điều này cũng có thể hiểu là, nếu tăng thêm giá trị xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ, sẽ tương đương với tăng giá trị xuất khẩu 4,7 triệu USD hàng dệt may. Đó là chưa kể chi phí đầu tư đối với hàng thủ công mỹ nghệ thấp hơn rất nhiều do sản phẩm này không đòi hỏi đầu tư nhiều máy móc, trang thiết bị và chủ yếu làm bằng tay...Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tạo việc làm và thu nhập cho lao động trong nước.
Theo thống kê, tính đến nay, cả nước có khoảng 2.017 làng nghề với nhiều loại hình sản xuất như hộ gia đình, tổ sản xuất, tổ hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân,... thu hút hàng triệu lao động, kể cả lao động nhàn rỗi. Trong một ý nghĩa khác, việc duy trì và phát triển được các làng nghề truyền thống với nhiều thợ giỏi, nghệ nhân giỏi, có tay nghề cao cũng là cách duy trì các di sản văn hóa dân tộc từ đời này sang đời khác.
Theo Cơ quan Hợp tác quốc tế JICA (Nhật Bản), ngành hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam đã đào tạo việc làm cho hơn 1,35 triệu người; trong đó, 342 nghìn người đan tre trúc và song mây, 233 nghìn làm dệt thảm, chiếu đan lát, 129 nghìn thợ dệt thêu, với 60% trong số lao động đó là nữ. Thu nhập bình quân của lao động ngành nghề, cũng theo JICA là 366.000 VND/người/tháng. (Thu nhập bình quân chung cả nước là 295.000 VND và vùng nông thôn là 225.000 VND/người/ tháng).
Thị trường truyền thống và thị trường mục tiêu
Thời kỳ hoàng kim của hàng thủ công mỹ nghệ là giai đoạn 1975 đến 1986. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu đạt bình quân 40%, cao điểm đạt 53,4% (năm 1979). Giai đoạn trước 1990, thị trường chủ yếu là khối các nước Đông Âu, Liên Xô theo những thỏa thuận song phương. Sau 1990, thị trường này suy giảm bởi những biến động chính trị (năm 2000 chỉ đạt 40 triệu USD). Từ sau năm 2000, thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga và nhiều nước ASEAN, do những nỗ lực tìm kiếm thị trường. Trong đó, EU chiếm 50% giá trị xuất khẩu, Nhật Bản được xem là thị trường chính ở châu á, với 5% tỷ trọng. Mỹ là thị trường đầy triển vọng. Số các nước nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, từ 50 năm 1996, tăng lên 133 nước vào năm 2005; và hiện nay, sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có mặt hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
Theo một con số thống kê gần đây, giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ chính yếu qua các năm từ 2000 đến 2006 như sau: 2000 đạt 235 (triệu USD), 2001 đạt 235, 2002 đạt 331, 2003 đạt 367, năm 2004 đạt 450, năm 2005 đạt 560 và 630,4 vào năm 2006. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này là 17,87%.Với thị trường EU ta xuất khẩu mặt hàng chính là gỗ, trong đó, Đức, Pháp, Hà Lan đã chiếm 10% tổng hàng hóa nhập khẩu.
Tỷ lệ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 21,28%, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,8%. Thị trường Nhật Bản: kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này là 3,79 triệu USD năm 2004 (tăng 16,6% so với 2003). Khách hàng Nhật rất ưa thích mặt hàng gỗ và số lượng khách du lịch cũng gia tăng. Hiện có nhiều công ty Việt Nam sản xuất và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Ngoài ra, thị trường Nam Phi cũng tăng trưởng với nhiều triển vọng khi nhiều Cty Việt Nam đang tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường Nam Phi.
Theo TS. Nguyễn Văn Sánh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển ĐBSCL thì: "Người Việt vốn có tập quán sử dụng hàng thủ công mỹ nghệ từ lâu đời. Do đó, khi có thu nhập cao, hành vi tiêu dùng sẽ theo xu hướng sử dụng những hàng hóa có nguồn gốc nguyên liệu từ thiên nhiên và từ các nghề truyền thống". Tuy nhiên, mặc dù đã và đang có những đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cũng như nhiều lợi ích kinh tế xã hội khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề truyền thống vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển và mở rộng thị trường.
TS. Nguyễn Văn Sánh đã chỉ ra những tồn tại đồng thời là những thách thức đó. Trước tiên là những cản trở hiện tại trên thị trường, như: chi phí cho thủ tục giao nhận hàng khá cao (30 USD/m3), mẫu mã đơn điệu, sản phẩm vì thế không đồng nhất. Chi phí vận chuyển tính theo đơn vị m3 cao dẫn đến bất lợi trong cạnh tranh khi xuất khẩu hàng hóa sang EU và Mỹ. Một khó khăn nữa là Việt Nam phải chịu áp lực cạnh tranh cao với hàng hóa Trung Quốc, Thái Lan cùng nhiều nước ASEAN cả về giá cả và mẫu mã; chưa kể áp lực từ hàng nhái, hàng giả...
Thị trường nội địa có sức mua yếu, trong khi kinh nghiệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Mặt khác, ngành hàng thủ công mỹ nghệ và làng nghề truyền thống Việt Nam hiện tại còn thiếu tính liên kết giữa khoa học và mỹ thuật học với việc chế tạo, sản xuất sản phẩm.
TS. Nguyễn Văn Sánh cho biết thêm: "Chúng ta mặc dù đã có những chính sách hỗ trợ cho ngành, vẫn chưa có chiến lược phát triển toàn diện ngành hàng này trong việc phát triển sản xuất, từ khâu giống, vùng nguyên liệu cho đến tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ".
Theo VnEconomy
Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam có cơ hội thế nào trên thương trường
Reviewed by đức cảnh
on
tháng 10 28, 2017
Rating: